Phương pháp điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa sinh học

Điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa sinh học là một trong những phương pháp điều trị ung thư thay thế cho phương pháp xạ trị, hóa trị thông thường. Phương pháp này được K Dược tổng hợp từ các học giả, các nhà khoa học, bác sĩ nước ngoài. K Dược chưa có điều kiện trực tiếp thử nghiệm lâm sàng. Vậy nên bạn đọc cần nghiên cứu chi tiết hơn nếu muốn áp dụng.

Hoặc ngoài ra. Bạn đọc có thể tham khảo thêm liệu pháp đào thải gốc tự do rất hiệu quả và an toàn trong việc chống di căn, ức chế khối u. Phương pháp này đã được kiểm chứng thành công bởi rất nhiều bệnh nhân, đã sử dụng và cải thiện sức khỏe thấy rõ chỉ trong 6 tháng.

Sơ lược về phương pháp điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa sinh học

Cơ thể có thể tồn tại vài tuần không thức ăn, vài ngày không nước uống, nhưng chỉ vài phút nếu không có oxy. Cơ thể chúng ta được cấu tạo chủ yếu là nước, trong đó hơn 90% là oxy. Mỗi tế bào của cơ thể đòi hỏi được cung cấp oxy không ngừng để nuôi các phản ứng hóa học tạo ra năng lượng, giải độc chất thải, và duy trì sản sinh các thành phần cấu trúc tế bào. Bạn có nhớ giải Nobel của Otto Warburg không? Nó được dựa trên nghiên cứu của ông về các sắc tố tế bào trong hô hấp tế bào. Ông tin tưởng chắc chắn rằng tất cả các bệnh thoái hóa là kết quả của sự thiếu oxy ở cấp độ tế bào.

Câu nói của ông thường được trích dẫn là:

“Ung thư chỉ có một nguyên nhân chính. Đó là sự thay thế hô hấp oxy bình thường của các tế bào trong cơ thể bằng hô hấp kị khí của tế bào”.

Bác sĩ Warburg chỉ ra rằng chất nào lấy đi oxy của tế bào là chất gây ung thư. Năm 1966, ông tuyên bố rằng việc đi tìm các chất gây ung thư mới là vô ích, bởi vì kết quả cuối cùng của mỗi lần tìm là như nhau, tế bào bị tước đi oxy. Ông cũng nói thêm rằng việc tìm kiếm không ngừng các chất gây ung thư mới là phản tác dụng vì nó che khuất nguyên nhân chính, thiếu oxy, và do đó ngăn cản điều trị thích hợp. Một khi mức độ oxy có sẵn cho một tế bào giảm xuống dưới 40% so với bình thường, tế bào buộc phải chuyển sang phương pháp kém hơn để sản xuất năng lượng gọi là lên men. Khi đó tế bào mất đi sự điều chỉnh sao chép vì tự kích thích với các yếu tố tăng trưởng (như IGF) để đáp ứng tình trạng thiếu oxy.

Định nghĩa đơn giản, “oxy hóa” là sự tương tác giữa oxy và bất kỳ chất nào nó tiếp xúc. Thở oxy là một quá trình “oxy hóa”.Không thể có cuộc sống nếu không có quá trình oxy hóa. Cơ thể sử dụng oxy hóa như tuyến đầu tiên bảo vệ chống lại vi khuẩn, vi-rút, nấm men và ký sinh trùng. Khi chúng ta sử dụng những nguyên lý chính của oxy hóa để mang lại những cải thiện trong việc chữa trị ung thư, việc đó được gọi là “điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa”.

Hầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua các cơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm oxy hóa. Bất cứ khi nào một chất bị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “oxy hóa” tức là mất đi electron) để các phản ứng giữ “cân bằng”. Một ví dụ, oxy hóa là quá trình gây gỉ kim loại (oxi hóa chậm) hoặc cháy (oxy hóa nhanh).

Có hai chất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi nhận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu quả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh tim, ung thư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide và ozon (O3), được sử dụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp oxy hóa sinh học”. Nhà nghiên cứu hàng đầu về các liệu pháp oxy hóa sinh học là bác sĩ Charles H. Farr, người được đề cử giải Nobel Y học năm 1993 cho công trình của mình.

liệu pháp oxy 2

Triết lý đằng sau liệu pháp oxy hóa sinh học rất đơn giản. Nếu hệ thống oxy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ ăn uống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở không đúng), cơ thể không thể loại bỏ các độc tố. Các liệu pháp oxy hóa sinh học được sử dụng để cung cấp cho cơ thể oxy. Theo dạng tích cực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống lại bệnh tật.

Khi peroxide hydrogen hoặc ozon trong cơ thể tách nhỏ thành vô số gốc oxy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh vật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô thiếu hụt hoặc bị bệnh. Nó chỉ oxy hóa các tế bào này trong khi không dụng đến các tế bào khỏe mạnh nguyên vẹn. Khi cơ thể trở nên bão hòa với những hình thức đặc biệt này của oxy, nó đạt đến trạng thái tinh khiết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ bản bị oxy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh hơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch, làm nền tảng cơ bản cho liệu pháp điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa.

Ozon đóng vai trò quan trọng trong điều trị ung thư bằng liệu pháp này

Ozon được Friedrich Schonbein phát hiện vào năm 1840, Nó là oxy trong “mối quan hệ tay ba”, một hình thức kích hoạt oxy với ba nguyên tử. Ban đầu, ozon được sử dụng để khử trùng vết thương trong Thế chiến thứ nhất. Liệu pháp Ozon làm tăng tốc độ chuyển hóa oxi và kích thích giải phóng các nguyên tử oxi trong máu. Trong khoảng thời gian 20-30 phút, ôzôn tách ra thành hai nguyên tử oxy bình thường và một nguyên tử oxi đơn có tính oxi hóa. Chính ôxy đơn này nhắm vào các tế bào bị bệnh.

Điều đã được minh chứng là ôzôn có thể “làm nổ tung” các lỗ xuyên qua màng của các vi-rút HIV), nấm, men, vi khuẩn và các tế bào mô bất thường (tế bào ung thư) trước khi tiêu diệt chúng, mà không làm tổn hại các mô bình thường. Ozon là trọng tâm có nhiều nghiên cứu trong những năm 1930 ở Đức, tại đó ozon đã được sử dụng thành công để điều trị cho bệnh nhân bị viêm ruột, viêm loét đại tràng, bệnh Crone, và tiêu chảy do vi khuẩn.

lieu-phap-oxy
Điều trị ung thư bằng Ozone

Ozon y tế được làm từ oxy tinh khiết kết hợp với năng lượng điện (sử dụng một máy phát ozon) để tạo thành ozon. Ozon có thêm một phân tử oxy (oxy đơn) mà nó không muốn ở đó, vì vậy nó tách ra và cố gắng liên kết với các phần tử khác như carbon monoxide (rất nguy hiểm) và biến nó thành carbon dioxide (cơ thể biết phải làm gì với nó). Cơ thể chúng ta thích oxy, cho nên oxy đơn đỏ bị ăn ngấu nghiến bởi mọi thứ tốt trong cơ thể và tiêu hủy mọi thứ xấu, vì tác nhân gây bệnh như vi khuẩn, vi-rút, nấm mốc, nấm, ký sinh trùng, và ung thư rất ghét ôzôn. Sau khi oxy đơn biến mất, thì còn lại oxy.

Vậy, làm thế nào đưa được ozon vào cơ thể? Một phương pháp tuyệt vời là thông qua Ozon IV (tiêm một chất lỏng bão hòa ozon vào máu). Một phương pháp hiệu quả là liệu pháp autohemotherapy (qua chai truyền dịch), 10-15 ml máu được lấy ra khỏi cơ thể, bão hòa với ozon, và sau đó đưa trở lại vào cơ thể. Có lẽ liệu pháp ozon hiệu quả nhất trong tất cả là tăm hơi ozon, với ứng dụng kép của ozon và thân nhiệt cao. Tiêm trực tiếp thì mạnh, nhưng gần như không có sẵn như tắm hơi ô-zôn, thứ mà hầu như người nào cũng có thể sử dụng tại nhà cho bản thân và gia đình rất tuyệt vời.

Hãy nhớ rằng, năng lượng của ozon thực hiện công việc này. Do đó, ozon luôn được coi là liệu pháp điện (electrotherapy). Như Tesla nói, oxy chi là vật dẫn điện vào cơ thể. Ozon kích thích sự sản xuất các cytokine. Cytokine là các “tế bào sứ giả” như các protein kháng vi-rút và chất sát khuẩn trong bạch cầu, kích hoạt phản ứng của những thay đổi tích cực trong toàn hệ miễn dịch. Việc tăng cường sự có mặt của oxy lần lượt hỗ trợ các chức năng và giải độc của tất cả các cơ quan trong cơ thể.

Như tôi đã đề cập, không giống như phần lớn các vi khuẩn, nấm và vi-rút, đấng sáng tạo đã thiết kế cơ thể chúng ta để tự bảo vệ đối với phản ứng của oxy đơn. Đó là nhờ việc sản xuất tế bào của enzyme phòng thủ (superoxide dismutase (SOD), glutathione peroxidase (GPx), glutathione reductase (GR) và catalase. Để tạo ra các enzyme này cần một lượng năng lượng thích hợp, nhưng tế bào ung thư yếu ớt sẽ không có năng lượng để tạo ra chúng. Thế nên, nó bị oxy đơn tấn công.

Theo đó ozon không làm hại các tế bào khỏe mạnh, nhưng có “tính diệt khuẩn, diệt nấm và diệt vi-rút rất rõ rệt và vì thể được sử dụng rộng rãi trong khử trùng vết thương, cũng như vi khuẩn và vi-rút gây bệnh” (R. Viebahn Haensler, The use of Ozon in Medicine – Sử dụng Ozon trong y học). Ozon chọn lọc chất độc, thế nên kết quả cuối cùng là liệu pháp Ozon diệt vi khuẩn, vi-rút, nấm, và men có hại nhưng không đụng đến các tế bào khỏe mạnh.

Tạp chí Science ngày 22 tháng 8 năm 1980, có một báo cáo do một số bác sĩ y khoa viết tựa đề ozon Selectively Inhibits Growth of Human Cancer Cells (ozon chọn lọc ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư ở người). Báo cáo nói:

“Sự phát triển của các tế bào ung thư ở người đến từ ung thư phổi, vú và tử cung đã được ngăn chặn một cách chọn lọc với liều phụ thuộc ozon ở 0,3 đến 0,8 phần triệu ozon trong không khí xung quanh trong tám ngày nuôi cấy. Nhị bội nguyên bào sợi phổi người hoạt động như những tế bào kiểm soát không ung thư. Sự hiện diện của ozon ở 0,3 đến 0,5 phần triệu đã ức chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư tương ứng 40% và 60%. Các tế bào phổi không ung thư không bị tác động ở những mức này. Tiếp xúc với Ozon tại 0,8 phần triệu ức chế sự tăng trưởng tế bào ung thư hơn 90% và kiểm soát sự tăng trưởng của tế bào nhỏ hơn 50%. Rõ ràng cơ chế phòng vệ chống lại ozon gây tổn hại đáng bị suy giảm trong các tế bào ung thư ở người”.

Bằng chứng từ những nghiên cứu này của các bác sĩ là không thể chối cãi.

Cả EPA (Cục bảo vệ môi trường Mỹ) và FDA thừa nhận khả năng oxy hóa của ozon là hơn 99,99% cho tất cả tác nhân gây bệnh qua đường nước.

Được sử dụng vào mục đích sức khỏe từ năm 1860), và hiện đang được sử dụng tại hơn 16 quốc gia. Sử dụng rộng rãi nhất là ở Đức, nơi có hơn 7.000 bác sĩ đã điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa cho hơn 12 triệu người kế từ Thế chiến thứ hai.

Vai trò của Hydrogen peroxide trong liệu pháp điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa

Hydrogen peroxide (H2O2) tham gia tất cả các quá trình quan trọng của cuộc sống và phải có mặt trong hệ miễn dịch giúp hệ này hoạt động bình thường. Sữa non (trong sữa mẹ) có nồng độ H2O rất cao. Các tế bào trong cơ thể làm nhiệm vụ chống nhiễm trùng sản xuất H2O2 tự nhiên như tuyến đầu bảo vệ chống lại sự xâm nhập của sinh vật (như ký sinh trùng, vi rút, vi khuẩn, và men). Bác sĩ Charles Farr đã chỉ ra rằng H2O. kích thích hệ thống enzyme oxy hóa trong cơ thể, gia tăng mức độ trao đổi chất, làm các động mạch nhỏ giãn ra và tăng lưu lượng máu, tây sạch độc tő, tăng nhiệt độ cơ thể, và tăng cường phân phối và tiêu thụ oxy của cơ thể. HOh cũng kích thích sản xuất các tế bào bạch cầu rất cần thiết để chống nhiễm trùng.

Vào những năm 1950, bác sĩ Reginald Holman đã tiến hành các thí nghiệm liên quan den viec sử dụng H2O bổ sung vào nước uống của những con chuột có khối u ung thư. Các khối u đã biến mất đi toàn trong vòng 15 đến 60 ngày. Vào những năm 1960, các bác sĩ Châu Âu bắt đầu kê H2O2 cho bệnh nhân. Ngay lập tức, việc sử dụng đã trở thành một phần được chấp nhận của y tế chủ đạo ở Đức, và Cuba. Trong một bài báo, bác sĩ Kurt Donsbach viết:

“30 gam 35% hydrogen peroxide (cho mỗi 3,785 lít nước) trong bình phun hơi mỗi đêm trong phòng ngủ khí thũng sẽ giúp người ta hít thở thoải mái hơn! Tôi làm điều này cho bệnh nhân ung thư phổi của mình.”

Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao H2O2 sủi bọt khi bạn đổ nó vào vết thương? Lý do nó sùi bọt là vì máu và các tế bào chứa một Loại enzyme gọi là “catalase”. Vì vết cắt hoặc vết xước có chứa cả máu và các tế bào bị tổn thương, nên có rất nhiều catalase trôi nổi xung quanh. Khi catalase tiếp xúc với hydrogen peroxide, nó sē biến hydrogen peroxide (H2O2) thành nước (H2O) và khí oxy.

Catalase làm việc này cực kỳ hiệu quả, lên tới 200.000 phản ứng trong một giây! Những bong bóng bạn nhìn thấy trong bọt là bong bóng oxy tinh khiết được catalase tạo ra .

Một phương pháp tuyệt vời để cung cấp H2O2 là cho H2O2 yếu, rất tinh khiết (0,0375% hoặc nồng độ thấp hơn) vào dung dịch nước đường hoặc muối, giống như sử dụng truyền tĩnh mạch ở bệnh viện. Truyền liều 50 đến 500 ml từ từ vào tĩnh mạch lớn, thường ở cánh tay, trong khoảng thời gian 1 đến 3 giờ tùy thuộc vào lượng ấn định và điều kiện của bệnh nhân. Thường điều trị khoảng một lần một tuần cho bệnh mạn tính, nhưng có thể sử dụng hằng ngày đối với bệnh nhân HIV và ung thư. Bác sĩ sẽ xác định tổng số lần xử lý cần thiết để điều trị tình trạng cụ thể của bạn. Hon nửa thế kỷ qua, hàng chục ngàn bệnh nhân đã được điều trị H2O2 mà không có tác dụng phụ nghiêm trọng nào.

Bạn đọc cần lưu ý rằng hydrogen peroxide mua ở cửa hàng tạp hóa chứa hóa chất độc hại. Nó chỉ dành để sử dụng ngoài da. Bệnh nhân ung thư nên tránh xa dạng này của H2O2. Ngoài ra, bệnh nhân ung thư sử dụng H2O2 bên trong cơ thể cũng nên sử dụng một enzyme phân hủy protein chất lượng (như Vitalzym), nó sẽ cắt qua lớp phủ protein trên tế bào ung thư và cho phép H2O2 thâm nhập xuyên qua thành tế bào.

Lưu ý: Nếu đang theo chế độ än Budwig, ban nên tránh ăn thực phẩm cung cấp H2O2 vì sự tương tác của các chi với H2O có thể gây tổn hại dạ dày.

10 thoughts on “Phương pháp điều trị ung thư bằng liệu pháp oxy hóa sinh học

  1. Hoàng Long says:

    Những thông tin ở bài viết trên được lấy từ cuốn sách “Ung thư, sự thật, hư cấu, gian lận” của tác giả Ty Bollinger. Tôi nghĩ nên trích dẫn nguồn bài viết thể hiện sự tôn trọng với tác giả.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *